Chức năng của đất ngập nước Đất_ngập_nước

Cung cấp nước cho sinh hoạt

Đất ngập nước [6] là những dòng sông, suối, các hồ chứa nước và các thủy vực nước ngọt chính là nguồn cung cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt của con người. Việt Nam là một nước có hệ thống sông ngòi rất phong phú, nhưng tài nguyên nước mặt lại phân bố không đều trên phạm vi lãnh thổ và thường 70 - 80% lượng nước sông tập trung trong mùa lũ, còn 6-9 tháng mùa khô hạn chỉ có 20 – 30%, làm cho tình trạng thiếu nước trở nên gay gắt hơn khi dân số ngày càng tăng và khi độ che phủ của rừng ngày càng giảm do tình trạng rừng đầu nguồn bị tàn phá. Chưa có công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam tính đến giá trị kinh tế của đất ngập nước trong chức năng cung cấp nước sinh hoạt của người dân, nhưng nước đối với cuộc sống của con người là sự tồn tạiphát triển, sẽ trở nên vô cùng quý giá, có thể không tính được thành tiền.

Đất ngập nước là những vùng sản xuất quan trọng

Hệ thống đất ngập nước tự nhiên sản xuất một loạt các thảm thực vật và các sản phẩm sinh thái khác có thể thu hoạch để sử dụng cá nhân và thương mại. Quan trọng nhất trong số này là cá, có tất cả hoặc một phần của chu kỳ cuộc sống của nó xảy ra trong một hệ thống đất ngập nước. nước ngọt và nước mặn là nguồn protein chính của cho một tỷ người và chiếm 15% trong hai tỷ khẩu phần ăn của người dân. Ngoài ra, cá tạo ra một ngành công nghiệp đánh bắt cá cung cấp 80% thu nhập và việc làm cho người dân ở các nước đang phát triển. Lương thực được tìm thấy trong hệ thống đất ngập nước là gạo, hạt phổ biến được tiêu thụ với tỷ lệ 1/5 tổng số lượng calo toàn cầu. Ở Bangladesh, CampuchiaViệt Nam, nơi những cánh đồng lúa đang chiếm ưu thế về cảnh quan, tiêu thụ gạo đạt 70%.[7]Các sản phẩm có nguồn gốc từ rừng ngập mặn khác:

  • Củi.
  • Muối (sản xuất bằng cách bay hơi nước biển).
  • Thức ăn gia súc.
  • Y học cổ truyền (ví dụ như từ vỏ cây rừng ngập mặn).
  • Sợi cho hàng dệt may.
  • Thực vật có giá trị kinh tế như cói,...

Đất ngập nước là vùng sản xuất thủy sản

Đó là những vùng đất ngập nước bao gồm cả vùng đất ngập nước ngọt và đất ngập nước mặn sản xuất thủy sản cung cấp cho nhu cầu xã hội và xuất khẩu, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới. Nước trong các sông hồ Việt Nam rất giàu các sinh vật phù du là nguồn thước ăn cho cá. Các khu rừng ngập nước là những nơi cung cấp giống, bãi đẻ, thức ăn cho các loài thủy sản.[8] Để hoạt động khai thác thủy sản mang lại hiệu quả, trước hết phải dựa vào cộng đồng dân cư. Các địa phương cần khôi phục lại tổ quản lý đầm vịnh do nhân dân tự nguyện thành lập theo từng nhóm nghề cụ thể. Bên cạnh đó, không cho người dân đánh bắt liên xã, mà thiết lập địa giới ngư trường theo từng xã. Hoạt động khai thác phải được đặt dưới sự quản lý của chính quyền cơ sở nhằm kiểm soát được số lượng ngư cụ, cũng như số hộ khai thác.

Chắn sóng, chống xói lở và ổn định bờ biển

Nhờ có đai rừng ngập mặn ven biển nên đã làm giảm động lực của sóng và thủy triều và hạn chế sự xói lở bờ biển. Có thể nói rằng không có công trình nào bảo vệ bờ biển chống xói lở tốt bằng đai rừng ngập mặn.

Lưu trữ chứa và Chống ngập

Hệ thống đất ngập nước của vùng đồng bằng được hình thành từ các dòng sông lớn phía hạ lưu của họ đầu nguồn. Hệ thống sông đáng chú ý là kết quả lớn của vùng đồng bằng bao gồm sông Nile, sông Niger đồng bằng nội địa, [lũ đồng bằng sông Zambezi], sông Okavango nội địa đồng bằng, đồng bằng sông Kafue [vùng ngập hồ Bangweulu] (Châu Phi), sông Mississippi (Mỹ), sông Amazon (Nam Mỹ), sông Dương Tử (Trung Quốc), sông Danube (Trung Âu) và sông Murray-Darling (Australia). "Các vùng lũ của con sông lớn làm hồ chứa tự nhiên, cho phép nước dư thừa để lây lan ra trên một diện tích rộng, làm giảm độ sâu và tốc độ của nó. Vùng đất ngập nước gần thượng nguồn của sông suối có thể làm chậm dòng chảy nước mưa và mùa xuân tuyết tan để nó không chạy thẳng ra đất vào các dòng nước. Điều này có thể giúp ngăn ngừa đột ngột, gây thiệt hại lũ lụt ở hạ lưu.[9]

Chứa giá trị về đa dạng sinh học

Đất ngập nước là vùng cửa sông là nơi có sự đa dạng về loài chim định cư và di cư, nơi phân bố của rừng ngập mặn, đầm lầy nước mặn, cỏ biểntảo. Đất ngập nước vùng đầm phá là nơi cư trú của nhiều loài cá nơi dừng chân của nhiều loài chim di cư. Các vùng đầm phá ven biển miền trung còn mang những nét độc đáo về sinh cảnh tự nhiên và chứa đựng giá trị đa dạng sinh học rất lớn cho khu hệ sinh vật thủy sinh. Các vùng đất ngập nước nội địa như U Minh, Đồng Tháp Mười và các hệ thống sông suối, hồ là những nơi chứa đựng nhiều loài động vật, thực vật đặc hữu hoặc những loài có tầm quan trọng về đa dạng sinh học toàn cầu.

Nơi sinh sống cư trú lâu đời của cộng đồng dân cư

Đất ngập nước và các cộng đồng dân cư nông thôn đã gắn bó với nhau từ hàng ngàn năm. Cộng đồng dân cư Việt Nam đã sống với nhau thành những môi trường xã hội. Số lượng của những người sống và làm việc gần bờ biển dự kiến sẽ tăng nhanh trong vòng 50 năm tới. Từ khoảng 200 triệu người hiện đang sống ở các vùng đất thấp ven biển, sự phát triển của các trung tâm đô thị ven biển dự kiến sẽ tăng dân số 5 lần trong vòng 50 năm.[10] Vương quốc Anh đã bắt đầu có các khái niệm về quản lý tổ chức lại ven biển. Kỹ thuật quản lý này cung cấp bảo vệ bờ biển qua việc phục hồi vùng đất ngập nước tự nhiên chứ không phải thông qua kỹ thuật được áp dụng.

Những quan cảnh đẹp để phát triển du lịch

Có thể nói Việt Nam là một đất nước có cảnh quan đẹp, trong đó hầu hết các vùng đất ngập nước là những nơi có cảnh quan dẹp nhất. Có những vùng đất ngập nước đã nổi tiếng trong cả nước và trên thế giới là điểm đến của các du khách trong nước và quốc tế như Hạ Long, Cát Bà, Phú QuốcĐồng Bằng sông Cửu Long.